Trang chủ » Tin tức » PHƯƠNG PHÁP TRIỂN KHAI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC

PHƯƠNG PHÁP TRIỂN KHAI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC

Hội đồng khoa học, Viện Nghiên cứu hợp tác phát triển giáo dục

1. Khái niệm và phân loại đề tài nghiên cứu khoa học

Đề tài nghiên cứu khoa học là một vấn đề khoa học chưa được giải quyết cần phải được làm sáng tỏ để giải đáp những đòi hỏi của lý luận và thực tiễn.

Vấn đề khoa học về bản chất là một sự kiện, hiện tượng mới phát hiện mà khoa học chưa biết. Đó có thể là sự thiếu hụt của lý thuyết, hay là sự mâu thuẫn của thực tiễn, mà bằng những kiến thức, kinh nghiệm cũ không giải đáp được, đòi hỏi các nhà khoa học phải nghiên cứu để làm sáng tỏ.

Đề tài nghiên cứu khoa học xuất hiện là do nhu cầu của thực tiễn cuộc sống hoặc nhu cầu của sự phát triển lý luận. Song không phải cứ có nhu cầu của lý luận hay thực tiễn là có thể xuất hiện đề tài. Mà nhu cầu đó phải mang tính cấp thiết, đang chứa đựng mâu thuẫn bức xúc. Đồng thời đã xuất hiện khả năng giải quyết mâu thuẫn đó.

Hội đồng khoa học, Viện Nghiên cứu hợp tác phát triển giáo dục

Dựa theo tính chất nghiên cứu của đề tài, có thể chia đề tài khoa học thành các loại như sau:

– Đề tài thuần túy lý thuyết. Đó là đề tài thiên về xây dựng lý thuyết mới hoặc là bổ sung vào các lý thuyết đá có, làm phong phú kho tàng lý thuyết.

 – Đề tài mang tính chất điều tra. Đó là đề tài mà nhiệm vụ điều tra được đặt lên hàng đầu.

– Đề tài tổng kết kinh nghiệm. Đó là đề tài có nhiệm vụ và phương pháp chủ yếu là tổng kết các kinh nghiệm thực tiễn, làm cơ sở để xây dựng các giải pháp mới.

–  Đề tài mang tính chất thực nghiệm. Đó là đề tài sử dụng phương pháp chủ yếu là thực nghiệm để đề xuất các giải pháp mới cũng như kiểm nghiệm tính đúng đắn của các giải pháp đá đề xuất.

–  Đề tài hỗn hợp. Đây là dạng đề tài có nhiều tính chất, cả điều tra, tổng kết kinh nghiệm, hệ thống hóa lý thuyết, thực nghiệm…

Dựa theo loại hình nghiên cứu, có các loại đề tài sau:

– Đề tài nghiên cứu cơ bản. Đây là đề tài có mục tiêu phát hiện ra những sự kiện, hiện tượng khoa học mới, tìm ra bản chất, qui luật của chúng.

Có 2 loại hình nghiên cứu cơ bản: Nghiên cứu cơ bản thuần tuý. Nhằm phát hiện, sáng tạo ra cái mới, những quy luật, những lý thuyết khoa học. Nhưng chưa có địa chỉ ứng dụng. Nghiên cứu cơ bản định hướng. Nhằm tìm ra những kiến thức mới, giải pháp mới theo yêu cầu của thực tiễn. Đã có địa chỉ ứng dụng (theo đơn đặt hàng).

Nghiên cứu cơ bản thường có tính mạo hiểm cao, tốn kém, phức tạp, khó khăn. Đòi hỏi nhà khoa học phải có trình độ lý luận và thực tiễn phát triển cao.

– Đề tài nghiên cứu ứng dụng. Đây là loại hình nghiên cứu có mục tiêu nhằm tìm cách vận dụng những tri thức cơ bản để tạo ra những quy trình công nghệ mới, những nguyên lý mới trong hoạt động thực tiễn.

Nghiên cứu ứng dụng nhằm đưa khoa học vào thực tiễn, tạo ra động lực của sự phát triển thực tiễn. Nghiên cứu ứng dụng càng phát triển mạnh, càng tạo điều kiện cho sự rút ngắn thời gian từ khi phát minh đến khi ứng dụng.

– Đề tài nghiên cứu triển khai. Đây là loại hình nghiên cứu nhằm tìm khả năng áp dụng đại trà các kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn. Tức là, vận dụng các qui luật đã thu được từ nghiên cứu cơ bản và các giải pháp được xác định từ nghiên cứu ứng dụng để đưa ra hình mẫu với những tham số đủ mang tính khả thi về mặt kỹ thuật.

Nghiên cứu triển khai bao gồm: Nghiên cứu thử nghiệm; nghiên cứu thực nghiệm; nghiên cứu thí điểm; nghiên cứu thăm dò. Kết quả nghiên cứu triển khai mới chỉ là những sản phẩm mẫu, những hình mẫu có tính khả thi về kỹ thuật. Để áp dụng vào thực tiễn, cần phải tiến hành nghiên cứu những tính khả thi khác như về tài chính, về môi trường, về điều kiện chính trị, xã hội.

– Đề tài nghiên cứu dự báo. Đây là loại hình nghiên cứu nhằm phát hiện những triển vọng, những khả năng, những xu hướng vận động phát triển của khoa học và thực tiễn. Nghiên cứu dự báo có tác dụng định hướng cho sự phát triển của thực tiễn, cho sự hoạch định các chính sách chiến lược và tầm nhìn tới tương lai. Trong thực tế đôi khi chúng ta thiếu dự báo chính xác nên không có các chính sách đúng trước sự phát triển. Còn thụ động trong các tình huống mới nảy sinh.

2. Phương pháp chuẩn bị và tiến hành nghiên cứu một đề tài khoa học

  2.1. Giai đoạn chuẩn bị nghiên cứu

Bước 1: Xác định đề tài nghiên cứu

Xác định đề tài nghiên cứu là một vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình nghiên cứu, nó bảo đảm định hướng chính xác cho toàn bộ việc nghiên cứu khoa học. Xác định vấn đề nghiên cứu và đặt tên chính xác đề tài nghiên cứu là công việc khó khăn.

Xác định đề tài nghiên cứu được tiến hành dựa trên cơ sở phát hiện được vấn đề nghiên cứu. Vấn đề nghiên cứu là điều chưa biết, hoặc là chưa hiểu rõ bản chất của nó mà khoa học phải giải đáp. Để phát hiện được vấn đề nghiên cứu, thông thường các nhà nghiên cứu phải thiết lập và quan sát được các sự kiện nghiên cứu.

Sự kiện là một phần của đối tượng nghiên cứu, được bóc tách ra từ đối tượng nghiên cứu để quan sát. Theo PavLow (1849- 1936), sự kiện đối với khoa học được ví như là không khí nâng đỡ đôi cánh của bầy chim đang bay trên bầu trời. Sự kiện tồn tại trong tự nhiên và trong đời sống xã hội. Nhà nghiên cứu có thể thiết lập sự kiện theo cách chọn những sự kiện vốn tồn tại trong tự nhiên, xã hội để quan sát; hoặc chủ động tạo ra sự kiện bằng thực nghiệm khi không thoả mãn với những sự kiện đang tồn tại trong tự nhiên. Sau khi đã chọn được sự kiện nghiên cứu, nhà nghiên cứu phải bằng quan sát khoa học để phát hiện ra vấn đề nghiên cứu.

Như vậy, việc xác định đề tài nghiên cứu thường được tiến hành qua các bước sau: Từ hiện thực khách quan phát hiện các sự kiện nghiên cứu, tìm được các mâu thuẫn; từ các mâu thuẫn đó tìm ra được vấn đề nghiên cứu; từ vấn đề nghiên cứu, xác định được đề tài.

Cần chú ý, một hiện thực khách quan chứa đựng nhiều mâu thuẫn, một mâu thuẫn chứa đựng nhiều vấn đề. Nhà nghiên cứu cần biết chọn trong số đó mâu thuẫn nổi bật nhất, vấn đề cấp thiết nhất để xây dựng đề tài nghiên cứu.

Việc phát hiện vấn đề nghiên cứu được thực hiện bằng nhiều cách, thông thường có 2 cách chủ yếu sau: thứ nhất, dựa vào hứng thú, khả năng, trình độ, kinh nghiệm của nhà nghiên cứu để  khám phá, tìm ra các vấn đề nghiên cứu. Thứ hai, từ đơn đặt hàng của thực tiễn các cơ quan, đơn vị, cá nhân đặt ra cho các nhà nghiên cứu.

Để xác định được chính xác vấn đề nghiên cứu, nhà nghiên cứu cần phải giải đáp cho được các câu hỏi chủ yếu sau: Vấn đề nghiên cứu đó  thực sự có ý nghĩa khoa học không? Vấn đề đó có ý nghĩa thực tiễn không? Vấn đề đó có thực sự cấp thiết không? Vấn đề đó đã có những công trình nào đề cập đến, đề cập đến đâu? cần phải kế thừa, phát triển, bổ sung và tìm ra cái mới gì?

Đặt tên đề tài: Tên đề tài chính là sự phản ánh chính xác, cô đọng, súc tích, thể hiện được hướng và nội dung nghiên cứu. Tên đề tài chứa đựng một lượng thông tin cao nhất trong một số chữ gọn nhất.

Để đặt tên đề tài, cần chú ý một số vấn đề: Nhà nghiên cứu phải giải đáp cho được các câu hỏi sau: nghiên cứu cái gì? đối tượng nào? Ở  đâu? thời gian nào? để làm gì? Xác định rõ, đúng các từ khoá, từ đó phát triển các cụm từ và các mệnh đề khác. Từ khoá là các từ “chốt” của đề tài, khi thay đổi từ khoá sẽ kéo theo sự thay đổi toàn bộ nội dung của đề tài.

Về hình thức diễn đạt, tên đề tài phải được trình bày dưới dạng một đề mục, được diễn đạt ngắn gọn, rõ ràng, nhất quán, không có mâu thuẫn.

Cần lưu ý tránh một số lỗi: Tên đề tài quá rườm rà, quá nhiều từ khoá; ví dụ như: Nghiên cứu thực trạng, nguyên nhân, những nhân tố tác động, những biện pháp …. Tránh đặt tên đề tài bằng các cụm từ có độ bất định cao về thông tin như: thử bàn về…; về vấn đề …; góp phần tìm hiểu…; vì sao lại có vấn đề;  vài suy nghĩ về… Cách đặt tên đề tài như vậy có thể phù hợp với những bản tham luận hoặc những bài luận chiến. Tuy nhiên, khi sử dụng cách diễn đạt tên đề tài như vậy có thể dẫn đến sự mập mờ về mục tiêu nghiên cứu và gây khó khăn cho việc đánh giá công trình nghiên cứu.

Xác định đúng đề tài nghiên cứu là cơ sở rất quan trọng để đảm bảo cho quá trình nghiên cứu đạt được kết quả. Trong thực tế, đề tài nghiên cứu khoa học còn được bắt nguồn từ những ý tưởng khoa học độc đáo của các cá nhân. Ý tưởng khoa học của cá nhân được nảy sinh từ trong thực tiễn hoạt động, nghiên cứu, hoặc từ cơ chế trực giác. Qua sự đóng góp của tập thể, của đồng nghiệp, các nhà hướng dẫn khoa học hoặc hội đồng xét duyệt, ý tưởng khoa học sẽ được xác định thành đề tài khoa học.

Bước 2: Xây dựng đề cương nghiên cứu

 Đề cương nghiên cứu được xem là cương lĩnh làm việc của nhà nghiên cứu, nó giúp cho việc xác định phương hướng, chương trình, kế hoạch nghiên cứu một cách tối ưu. Đồng thời, đề cương nghiên cứu cũng sẽ giúp cho người nghiên cứu tập dượt và rèn luyện tác phong lao động khoa học; giúp người hướng dẫn khoa học nắm, điều chỉnh toàn bộ tiến trình nghiên cứu, đảm bảo cho quá trình nghiên cứu đạt được chất lượng. Đề cương nghiên cứu phải thể hiện những nét cơ bản về nội dung nghiên cứu. Cấu trúc cơ bản của đề cương nghiên cứu khoa học bao gồm những nội dung chính sau:

Phần mở đầu:

– Tính cấp thiết của đề tài:  Tính cấp thiết của đề tài, hay còn gọi là lý do chọn đề tài, về thực chất là trả lời câu hỏi: tại sao phải nghiên cứu vấn đề này, nếu để chậm trễ không nghiên cứu thì sẽ như thế nào? Muốn vậy, cần thực hiện tốt một số yêu cầu sau:

Phải làm sáng tỏ lý do về mặt thực tiễn, chỉ rõ các mâu thuẫn của hiện thực khách quan, những mâu thuẫn cấp bách cần được giải quyết.

Phải làm rõ những yêu cầu phát triển của lý luận, cũng như những yêu cầu chính trị, tư tưởng của vấn đề nghiên cứu.

Cần khái quát tình hình nghiên cứu xoay quanh vấn đề đó, cả ở phạm vi trong và ngoài nước; tìm ra được các kết quả có thể kế thừa, các chỗ hổng cần được giải quyết.

Việc luận giải lý do nghiên cứu của đề tài thường được tuân theo lôgic từ vĩ mô đến vi mô, đồng thời được lập luận chặt chẽ, đầy đủ song cũng không nên quá dài dòng.

– Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của đề tài là cái đích cần đạt tới trong quá trình nghiên cứu, nó sẽ chỉ đạo, hướng dẫn quá trình nghiên cứu đạt được kết quả. Khi xác định mục đích của đề tài, cần phải xác định rõ cả cái đích về mặt lý luận và cái đích về mặt thực tiễn. Đồng thời, việc diễn đạt mục đích đề tài phải được thể hiện rõ ràng, ngắn gọn.

–  Khách thể và đối tượng nghiên cứu: Khách thể nghiên cứu của đề tài là một bộ phận của hiện thực khách quan, được xem xét, tìm tòi trong quá trình nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một bộ phận, một thuộc tính, một mối quan hệ của khách thể được nhà nghiên cứu tập trung khám phá để tìm ra nhận thức mới hoặc đưa ra các giải pháp mới để cải tạo thực tiễn.

Việc xác định đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là xác định cái trọng tâm, cái chủ yếu cần giải quyết của đề tài. Việc xác định khách thể nghiên cứu chính là xác định giới hạn đối tượng của đề tài. Vì vậy, khách thể và đối tượng của đề tài có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chúng có thể chuyển hoá cho nhau. Khách thể của đề tài nhỏ có thể là đối tượng của đề tài lớn và ngược lại, đối tượng của đề tài lớn có thể là khách thể của đề tài nhỏ hơn.

– Giả thuyết khoa học: Giả thuyết khoa học phải được xây dựng dựa trên những căn cứ khoa học cả về lý luận và thực tiễn. Điều đó đòi hỏi khi xây dựng những giả định, dự đoán về bản chất của đối tượng nghiên cứu, cần phải dựa trên những lý thuyết đã được xác nhận tính khoa học, đồng thời phải dựa trên sự quan sát, khái quát các kinh nghiệm thực tiễn. Giả thuyết khoa học phải phù hợp với thực tế khách quan và trình độ phát triển của khoa học. Giả thuyết phải mang tính tiên đoán, chứa đựng những thông tin cần thiết, có tính logic, có thể kiểm chứng được. Giả thuyết phải được hoàn chỉnh, chính xác hoá trong quá trình nghiên cứu.

– Nhiệm vụ nghiên cứu: Nhiệm vụ nghiên cứu là những vấn đề cụ thể phải giải quyết, những công việc cụ thể phải thực hiện. Khi xác định nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài khoa học, phải căn cứ vào mục đích nghiên cứu, căn cứ vào giả thuyết khoa học, vào điều kiện khách quan và chủ quan trong quá trình nghiên cứu. Thông thường các đề tài khoa học thường có các nhiệm vụ chính là: Xây dựng, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của đề tài; Phát hiện thực trạng, phân tích sự tác động của các nhân tố, dự báo được sự vận động phát triển của đối tượng; Đề xuất các phương hướng, giải pháp, biện pháp vận dụng vào thực tiễn để thúc đẩy thực tiễn phát triển theo đúng qui luật khách quan.

– Phạm vi, giới hạn nghiên cứu: Xác định phạm vi, giới hạn nghiên cứu của đề tài chính là xác định giới hạn về không gian, thời gian, qui mô, khía cạnh của vấn đề nghiên cứu. Qua đó, giúp nhà nghiên cứu có phạm vi hoạt động rõ ràng, phù hợp với khả năng, điều kiện khách quan, đảm bảo cho quá trình nghiên cứu đi đúng trọng tâm, đúng hướng. Vì vậy, khi xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài, cần xác định rõ phạm vi về nội dung, qui mô của vấn đề nghiên cứu; đồng thời xác định rõ phạm vi về không gian, thời gian của vấn đề nghiên cứu đó.

– Cái mới khoa học của đề tài: Cái mới khoa học của đề tài chính là những thông tin khoa học mà tác giả của công trình là người đầu tiên tìm ra, có giá trị đối với lý luận và thực tiễn. Cái mới khoa học của đề tài có thể là những luận điểm mới, lý thuyết mới; hoặc là hệ thống các giải pháp, biện pháp giải quyết các mâu thuẫn của thực tiễn, thúc đẩy thực tiễn phát triển. Việc xác định cái mới khoa học của đề tài cũng chính là xác định giá trị lý luận, thực tiễn của đề tài; đồng thời đó cũng là tiêu chuẩn để đánh giá kết quả, chất lượng của đề tài.

– Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu của đề tài: Việc nghiên cứu đề tài khoa học phải được tiến hành dựa trên các quan điểm của một học thuyết nhất định để đạt tới chân lý. Đó chính là cơ sở phương pháp luận của đề tài. Trong nghiên cứu khoa học hiện nay, thông thường chúng ta phải dựa chắc vào các quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vào tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và các quan điểm tiếp cận khoa học. Trong đó phải xác định được quan điểm tiếp cận khoa học chuyên ngành của đề tài.

Cùng với việc xác định phương pháp luận nghiên cứu, cần thiết phải xác định đúng các phương pháp nghiên cứu cụ thể của đề tài. Khi xác định các phương pháp nghiên cứu, phải căn cứ vào tính chất của đề tài để xác định các phương pháp chủ yếu; đồng thời phải căn cứ vào nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, vào điều kiện và khả năng của nhà nghiên cứu để xác định các phương pháp nghiên cứu cho phù hợp. Thông thường, trong một đề tài phải sử dụng tổng hợp các phương pháp lý thuyết và thực tiễn, các phương pháp thu thập và xử lý thông tin. Trong đề cương nghiên cứu, phải mô tả các phương pháp dự kiến sẽ sử dụng ở mức độ chi tiết nhất định, không nên chỉ nêu tên các phương pháp một cách chung chung.

– Cấu trúc của đề tài: Trong đề cương, phải trình bày dự thảo về cấu trúc nội dung của công trình nghiên cứu. Muốn vậy, nhà nghiên cứu phải tìm hiểu công phu các tài liệu liên quan, phát huy cao độ khả năng tưởng tượng sáng tạo, tiên đoán khoa học để thiết kế được mô hình về nội dung cấu trúc của vấn đề nghiên cứu một cách thoả đáng. Cấu trúc nội dung sơ bộ của đề tài phải phản ánh đầy đủ nội dung của các nhiệm vụ của đề tài đặt ra; mang tính logic chặt chẽ giữa các chương, các phần, các đề mục, các tiểu tiết.

Việc xác định số lượng các chương của đề tài tuỳ thuộc vào tính chất, nhiệm vụ của đề tài. Tuy nhiên, các chương của đề tài phải phản ánh đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu cũng như dự đoán được sự vận động phát triển của đối tượng, đưa ra các giải pháp khoa học thúc đẩy đối tượng phát triển phù hợp qui luật.

– Các nguồn tài liệu tham khảo: Quá trình nghiên cứu đề tài khoa học thường phải sử dụng một khối lượng lớn các tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau. Phải xác định nguồn tài liệu ngay từ khi xác định đề cương nghiên cứu. Thông thường, nguồn tài liệu được sử dụng trong nghiên cứu khoa học là các tác phẩm kinh điển; các tác phẩm chuyên khảo trong lĩnh vực khoa học chuyên ngành; các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài; các văn bản tổng kết kinh nghiệm.

Cần chú ý, trong đề cương có thể nêu rõ những nguồn tài liệu cần thiết và liên quan trực tiếp tới vấn đề nghiên cứu hoặc có thể nêu cụ thể, chi tiết các tác phẩm, tác giả ( nếu đã xác định được rõ ràng).

 Phần cơ bản của đề tài:

 Đây là phần dự kiến cấu trúc nội dung nghiên cứu của đề tài. Trong phần này, cần xác định cụ thể tên các chương, các tiết, tiểu tiết, các nội dung cơ bản của từng tiểu tiết. Phải căn cứ vào nhiệm vụ của đề tài để xác định số chương, căn cứ vào nhiệm vụ của mỗi chương để xác định số tiết.

Thông thường, cấu trúc nội dung của một đề tài khoa học bao gồm các nội dung chính như sau:

Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu, phân tích các quan điểm khác nhau về vấn đề nghiên cứu, đề xuất quan điểm của tác giả về vấn đề đó.

Cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu, phân tích thực trạng và những vấn đề thực tiễn liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

Đề xuất những phương hướng, biện pháp, giải pháp mới cho vấn đề nghiên cứu. 

Thử nghiệm, thực nghiệm, đánh giá tính khả thi của những giải pháp đã đề xuất.

Phần kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục

Kết luận toàn bộ đề tài không phải là sự tóm tắt các ý chính đã trình bày, mà phải đưa ra những nhận định, đánh giá tổng quát về vấn đề nghiên cứu. Có thể kết luận mở theo hướng khêu gợi cho việc nghiên cứu tiếp theo ở các đề tài khác.

Kiến nghị, là đề xuất với các cơ quan chức năng và các cấp lãnh đạo về việc tổ chức thực hiện những giải pháp, biện pháp của đề tài đã đề xuất. Đó là những vấn đề nằm ngoài khả năng của tác giả đề tài.

Danh mục tài liệu tham khảo là những tài liệu được tác giả sử dụng và trích dẫn trong quá trình nghiên cứu đề tài, có ý nghĩa như nguồn nguyên liệu đầu vào của đề tài. Vì vậy, phải lựa chọn những tài liệu có giá trị lý luận và thực tiễn cao, vừa mang tính cơ bản, vừa mang tính hệ thống và cập nhật;  trình bày theo quy định chung về trình bày văn bản.

Phụ lục là những bảng biểu, số liệu nhằm minh họa làm sáng tỏ nội dung của đề tài; được trình bày theo quy định chung về trình bày văn bản và được sắp xếp theo lôgic nội dung. Tổng số trang của phụ lục không được dầy hơn phần cơ bản của đề tài.

Trên đây là cấu trúc cơ bản của đề cương nghiên cứu của một đề tài khoa học. Tuy nhiên trong thực tế, tuỳ theo các chuyên ngành của từng lĩnh vực khoa học khác nhau mà cấu trúc của đề cương nghiên cứu có sự khác nhau. Nhưng dù có thể khác nhau về thứ tự , về số lượng các mục song các đề cương nghiên cứu của các đề tài khoa học phải phản ánh được những nội dung căn bản nêu trên.

Bước 3: Xây dựng kế hoạch nghiên cứu

Việc xây dựng kế hoạch nghiên cứu được tiến hành cụ thể, chi tiết, khoa học sẽ giúp cho mỗi người hình dung trước toàn bộ các công việc. Đồng thời, nó là cơ sở của việc tối ưu hoá quá trình giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, rèn luyện tác phong lao động khoa học, góp phần bồi dưỡng lòng say mê, sự hứng thú cao, tinh thần hợp tác trong nghiên cứu của các nhà khoa học. Trong kế hoạch nghiên cứu phải xác định rõ các vấn đề chính sau:

Xác định được các giai đoạn, các công việc trong từng giai đoạn đó.

Xác định được mốc thời gian, yêu cầu đạt được các công việc trong từng giai đoạn.

Xác định việc sử dụng lực lượng và phân công lực lượng cho việc thực hiện các nhiệm vụ trong từng giai đoạn, từng nhiệm vụ, từng công việc.

Xác định những điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện đề tài.

2.2. Giai đoạn triển khai nghiên cứu một đề tài khoa học

Bước một: Thu thập thông tin, dữ liệu nghiên cứu

Việc thu thập thông tin có ý nghĩa rất quan trọng đến kết quả nghiên cứu khoa học, bởi lẽ mục đích của nghiên cứu khoa học chính là tạo ra thông tin mới về đối tượng nghiên cứu. Nói cách khác, theo lý thuyết thông tin, nghiên cứu khoa học chính là quá trình tìm tòi, phát hiện thông tin mới và sử dụng thông tin đó vào mục đích phục vụ cuộc sống. Để có thể phát hiện được thông tin mới về đối tượng nghiên cứu, đòi hỏi các nhà khoa học phải biết kế thừa và phát triển các kết quả nghiên cứu trước đó. Vì vậy, việc thu thập thông tin, dữ liệu khoa học được coi là bước đầu tiên rất quan trọng trong quá trình triển khai nghiên cứu khoa học. Các nguồn thông tin thu thập bao gồm:

Các công trình khoa học có liên quan trực tiếp hay gián tiếp tới đề tài đã được công bố trong nước và ngoài nước.

Các tư liệu, số liệu từ các kho lưu trữ quốc gia, kho lưu trữ của các ngành.

Tư liệu, số liệu thực tế của các đơn vị, các ngành từ trung ương đến đơn vị cơ sở.

Thực trạng phát triển của đối tượng nghiên cứu từ kết quả điều tra, khảo sát, thí nghiệm, thực nghiệm, tổng kết kinh nghiệm

Để thu thập các thông tin, dữ liệu khoa học, đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải lựa chọn nhiều hình thức, phương pháp như: xây dựng các phiếu tài liệu ghi chép các thông tin; xây dựng các loại biên bản ghi chép kết quả quan sát đối tượng, phỏng vấn; xây dựng các loại sơ đồ, lược đồ, đồ thị biểu diễn các kết quả. Các tài liệu thu thập được phải đảm bảo tốt cả về số lượng và chất lượng. Về số lượng, các tài liệu phải đa dạng, phong phú, cập nhật; về chất lượng, các tài liệu phải khách quan, chính xác, có độ tin cậy cao, cập nhật với thực tiễn; phục vụ thiết thực cho các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. Đồng thời, tuỳ theo tính chất, nhiệm vụ nghiên cứu, các tài liệu phải đảm bảo tính bảo mật theo qui định của công tác bảo mật.

Bước hai: Xử lý các tài liệu đã thu thập được

Các tài liệu, dữ liệu khoa học thu thập được lúc đầu mới ở trạng thái cảm tính, vì vậy cần được các nhà nghiên cứu xử lý để đảm bảo tính khoa học.

Trước hết, nhà nghiên cứu cần tiến hành thao tác phân loại và hệ thống hoá các tài liệu đã thu thập được. Có thể phân loại và hệ thống hoá các tài liệu theo các nhiệm vụ của đề tài, theo các chương, mục, tiết, tiểu tiết; hoặc có thể phân theo thứ tự thời gian, không gian, theo các đặc điểm khác nhau.

Sau khi sàng lọc, phân loại, hệ thống hoá các tài liệu thu thập được, nhà nghiên cứu có thể khái quát chúng và sử dụng thao tác suy luận lôgic để khám phá, phát hiện đối tượng, tìm ra qui luật của đối tượng nghiên cứu. Để thực hiện tốt vấn đề này, đòi hỏi nhà nghiên cứu cần thực hiện thuần thục thao tác xử lý các tài liệu cả về mặt định lượng cũng như về định tính.

 Xử lý về định lượng. Xử lý về định lượng là xem xét, đánh giá các tài liệu đã thu thập được về mặt số lượng xem có đủ độ tin cậy cần thiết không; đồng thời đó còn là quá trình dùng phương pháp toán học (phương pháp thống kê toán học) để xử lý các số liệu tạo thành các tham số đặc trưng có thông tin cô đọng, cho phép nhà nghiên cứu rút ra được các kết luận cần thiết. Để sử dụng phương pháp thống kê toán học trong xử lý các tài liệu thu thập được, cần nắm vững các công thức thống kê toán học  .

 Xử lý về mặt định tính. Xử lý về định tính là xem xét, đánh giá kết quả nghiên cứu về mặt chất lượng, nhằm đi sâu tìm rõ những tính chất, đặc điểm, thuộc tính, qui luật của đối tượng trên cơ sở tổng hợp các số liệu đã thu thập được từ các nguồn tài liệu khác nhau. Để thực hiện được xử lý về định tính, nhà nghiên cứu cần thực hiện các thao tác phân loại – hệ thống hoá – khái quát hoá các số liệu, dữ liệu đã thu thập được; từ đó vận dụng các thao tác suy luận khoa học để tìm ra được các tính chất, đặc điểm, qui luật của đối tượng.

Đo đạc các kết quả nghiên cứu. Trong quá trình thu thập, xử lý các thông tin, nhà nghiên cứu cần phải chú ý đo đạc các kết quả nghiên cứu. Muốn vậy, cần phải xác định chính xác các tiêu chí, các chuẩn đo, các phương pháp đo đạc. Các tiêu chí đo, các chuẩn đo, các thang đo phải được thiết kế thống nhất, có độ tin cậy cao.

Bước ba: Kiểm tra kết quả nghiên cứu

  Đây là một khâu không thể thiếu của quá trình nghiên cứu khoa học. Kiểm tra kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp thông tin phản hồi cho nhà khoa học để điều chỉnh quá trình nghiên cứu nhằm đảm bảo thực hiện tốt mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. Thông thường có hai cách thức kiểm tra chủ yếu sau:

Kiểm tra bằng các phép suy luận lôgic. Suy luận là một thao tác cơ bản của tư duy, trong đó lấy tiền đề từ một hay nhiều phán đoán để rút ra các kết luận. Có hai cách suy luận là suy luận diễn dịch và suy luận qui nạp.

Suy luận qui nạp là phép suy luận đi từ những tri thức cụ thể đến tri thức khái quát, từ cái riêng đến cái chung. Có qui nạp hoàn toàn và qui nạp không hoàn toàn. Qui nạp hoàn toàn là phép qui nạp mà kết quả được khẳng định khi đã nghiên cứu tất cả các trường hợp của lớp đối tượng; tuy nhiên, phép suy luận này chỉ có thể thực hiện được khi đối tượng nghiên cứu là một tập hợp nhỏ. Qui nạp không hoàn toàn là phép qui nạp mà kết luận được rút ra chỉ mới dựa vào đa số các trường hợp của một lớp đối tượng nghiên cứu.

  Suy luận diễn dịch là phép suy luận mà tư duy đi từ cái khái quát này tới cái khái quát khác, từ cái bộ phận này tới cái bộ phận khác, từ cái cụ thể này tới cái cụ thể khác. Có suy luận diễn dịch trực tiếp và suy luận diễn dịch gián tiếp. Suy luận diễn dịch trực tiếp là loại suy luận mà các kết luận khoa học được rút ra từ một phán đoán làm tiền đề. Những suy luận có từ 2 phán đoán trở lên trong tiền đề gọi là suy luận diễn dịch gián tiếp. Đây là phép suy luận được sử dụng nhiều trong nghiên cứu khoa học.

 Từ nội dung của phép suy luận, nhà nghiên cứu cần kiểm tra các kết luận về các thông tin đã được xử lý của mình để xem các kết luận đó có đảm bảo độ chính xác, tin cậy không. Nếu có chỗ nào chưa đủ độ tin cậy, phải thu thập và xử lý thông tin lại.

Kiểm tra bằng thực nghiệm khoa học. Thực nghiệm khoa học là phương pháp rất quan trọng trong kiểm tra các kết quả nghiên cứu, trong ứng dụng những kết quả đó vào thực tiễn. Thông qua thực nghiệm khoa học sẽ cho phép khẳng định được tính đúng đắn của các kết luận khoa học, đồng thời khẳng định được tính khả thi của các giải pháp mới khi áp dụng vào thực tiễn. Do đó, các kết quả nghiên cứu cần được kiểm tra bằng thực nghiệm khoa học. Trong những trường hợp cần thiết, có thể tổ chức các hội thảo khoa học, xin ý kiến chuyên gia đóng góp về kết quả nghiên cứu.

2.3. Giai đoạn viết công trình nghiên cứu

   Đây là giai đoạn trình bày các kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học bằng một văn bản khoa học. Trong giai đoạn này, nhà nghiên cứu cần tuân thủ theo các bước chính là: hoàn thiện dàn ý công trình sau khi đã có các kết quả nghiên cứu thu thập được; tiến hành viết bản thảo và sửa chữa bản thảo; viết hoàn chỉnh văn bản khoa học trình bày các kết quả của đề tài.

Một là, viết phần tổng quan. Khi viết phần tổng quan vấn đề nghiên cứu, cần phân tích, đánh giá đúng các công trình khoa học đã được công bố liên quan đến đề tài. Nêu bật được sự kế thừa và điểm mới của đề tài mà mình sẽ nghiên cứu. Nên diễn đạt nội dung cốt lõi của các công trình đã công bố bằng ngôn ngữ của mình, không nên trích dẫn nguyên văn quá nhiều. Tránh liệt kê đơn thuần các công trình khoa học đã biết, mà phải phân tích, đánh giá khách quan các kết quả nghiên cứu đó.

Hai là, viết phần cơ sở lý luận của đề tài. Đây là công việc khó khăn, phức tạp nhất của quá trình nghiên cứu một đề tài khoa học. Đòi hỏi nhà nghiên cứu phải sử dụng thuần thục các thao tác phân tích, hệ thống hoá, khái quát hoá các tài liệu và bằng các suy luận khoa học để tạo ra cơ sở lý luận của đề tài. Phần lý luận phải trình bày được các khái niệm công cụ của đề tài; những nội dung phát triển mới về lý luận của đề tài; những yếu tố tác động đến vấn đề nghiên cứu.

Ba là, viết phần cơ sở thực tiễn của đề tài. Phải sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu thực tiễn để thu thập các số liệu, dữ liệu; đồng thời phải sử dụng các phương pháp toán thống kê để xử lý số liệu, từ đó rút ra được các kết luận khách quan, chính xác. Cấu trúc của phần này thường được trình bày theo lôgic như sau: Kinh nghiệm của nước ngoài và kinh nghiệm trong nước về vấn đề nghiên cứu; Khái quát đặc điểm thực tiễn của cơ sở nghiên cứu; Đánh giá thực trạng về vấn đề nghiên cứu (các nội dung thực trạng phải nhất quán với các nội dung  trong phần lý luận); Rút ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của eu điểm, hạn chế đó. Chú ý tìm ra cái mới trong thực trạng và thực tiễn.

Bốn là, viết phần phương hướng, biện pháp, giải pháp. Căn cứ vào phần lý luận và thực trạng để đề xuất phương hướng, biện pháp hay giải pháp của vấn đề nghiên cứu. Thông thường, phương hướng, biện pháp, giải pháp phải hướng vào giải quyết những hạn chế và khắc phục những nguyên nhân hạn chế đã được khái quát trong phần thực trạng. Đối với một số ngành khoa học, sau khi đề xuất các phương hướng, biện pháp, giải pháp cần phải khảo sát, thử nghiệm, thực nghiệm để khẳng định tính cần thiết, tích khoa học và khả thi của chúng trong thực tiễn.

Về hình thức trình bày của một đề tài khoa học phải theo quy định chung. Phải đáp ứng tốt các yêu cầu của một văn bản khoa học, cả về văn phong, về hình thức, bố cục, về trích dẫn khoa học.

Về văn phong, trong các đề tài khoa học phải sử dụng nhiều dạng ngôn ngữ như lời văn, biểu đồ, đồ thị, số liệu, biểu thức toán học… để có thể diễn đạt chính xác, sinh động, khách quan về kết quả nghiên cứu. Sử dụng ngôn ngữ phải đảm bảo độ chính xác về ngữ pháp, ngữ nghĩa; tránh dùng từ ngữ khoa trương, bóng bẩy, nặng về yếu tố cảm xúc, chủ quan. Câu văn thường được viết ở dạng bị động để phản ánh khách quan, trung thực về kết quả nghiên cứu.

Về bố cục, tuỳ theo tính chất của từng loại đề tài khoa học mà có những qui định cụ thể. Tuy nhiên phải đảm bảo tính lôgic, tính hệ thống, nhất quán và phản ánh chính xác về kết quả nghiên cứu.

Về trích dẫn, phải đảm bảo tính trung thực, tính pháp lý cũng như những yêu cầu về đạo đức trong trích dẫn khoa học.

3. Kết luận

Quá trình nghiên cứu một đề tài khoa học được thực hiện qua nhiều giai đoạn với các công việc được sắp xếp khoa học, hợp lý. Tuy nhiên, việc phân chia các giai đoạn chỉ mang tính tương đối, trong thực tế quá trình nghiên cứu, các giai đoạn, các công việc đó gắn bó rất chặt chẽ với nhau. Do đó, các nhà khoa học trong quá trình nghiên cứu cần phải giải quyết các công việc một cách linh hoạt, sáng tạo, thiết thực để đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình nghiên cứu.

Trên đây chỉ là những yêu cầu chung nhất về nội dung và hình thức trình bày của một đề tài khoa học. Trong thực tiễn, mỗi loại đề tài, mỗi chuyên ngành khác nhau, có các yêu cầu cụ thể khác nhau về cấu trúc của đề tài nghiên cứu.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

0822 86 58 58
Liên hệ